THÔNG TƯ

LIÊN BỘ TÀI CHÍNH - THUỶ LỢI SỐ 8-TT/LB
NGÀY 10 THÁNG 7 NĂM 1980 HƯỚNG DẪN VIỆC THU

THUỶ LỢI PHÍ BẰNG HIỆN VẬT

 

Căn cứ vào Điều lệ thu thuỷ lợi phí ban hành kèm theo Nghị định số 66-CP ngày 5-6-1962 của Hội đồng Chính phủ, và Nghị quyết số 9-CP ngày 9-1-1980 của Hội đồng Chính phủ về chính sách lương thực hiện nay, Bộ Tài Chính và Bộ Thuỷ lợi ra thông tư liên bộ hướng dẫn việc thu thuỷ lợi phí bằng hiện vật như sau:

 

1. Mức thu. Ruộng đất được hưởng nước nông giang tuỳ theo từng loại phải trả thuỷ lợi phí theo mức thu quy định trong Điều 6, Chương III của Nghị định số 66-CP ngày 5-6-1962 của Hội đồng Chính phủ và các thông tư hướng dẫn của Bộ Thuỷ lợi.

2. Cách thu. Thuỷ lợi phí thu bằng hiện vật đối với các loại cây trồng như sau:

- Ruộng đất trồng lúa, thuỷ lợi phí thu bằng thóc.

- Ruộng đất trồng hoa màu (ngô, khoai, sắn ...), Thuỷ lợi phí thu bằng thóc hoặc bằng hoa màu quy đổi ra thóc.

Thuỷ lợi phí thu bằng các sản phẩm trên được tính đồng thời với việc tính thuế nông nghiệp và mức nghĩa vụ bán lương thực cho Nhà nước trong hợp đồng kinh tế hai chiều.

- Đối với ruộng đất trồng cây công nghiệp và thực phẩm, các đơn vị quản lý thuỷ nông được phép tạm thời thu bằng tiền, theo giá thoả thuận, do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố xác định.

3. Đơn vị hoặc hộ dùng nước trả thuỷ lợi phí theo mức thu nói trên căn cứ vào hợp đồng tưới, tiêu nước đã ký kết với đơn vị quản lý thuỷ nông. Thuỷ lợi phí thu theo thời vụ thu hoạch cùng một lúc với thu thuế nông nghiệp và bán lương thực theo hợp đồng kinh tế hai chiều. Căn cứ vào thoả thuận trong hợp đồng đã ký kết, đơn vị quản lý thuỷ nông lập bảng nghiệm thu thanh toán thuỷ lợi phí trong từng vụ, ghi rõ diện tích ruộng đất hưởng nước, chất lượng tưới, tiêu nước, số thuỷ lợi phí thanh toán từng vụ, đến hết năm phải thanh toán hết, không để nợ chuyển sang năm sau.

Các đơn vị quản lý thuỷ nông phải gửi bản sao hợp đồng và bản nghiệm thu thanh toán thuỷ lợi phí nói trên cho cơ quan lương thực huyện để làm cơ sở thu và thanh toán.

4. Sau mỗi vụ sản xuất đã thu hoạch, các đơn vị và hộ dùng nước phải nộp số hiện vật dành để trả thuỷ lợi phí theo hợp đồng cho cơ quan lương thực huyện. Khi cơ quan lương thực huyện nhận, thì làm phiếu nhập kho, trên phiếu nhập kho ghi rõ là trả thuỷ lợi phí. Phiếu nhập kho được lập thành nhiều liên, một liên giao cho người nộp, một liên gửi cho đơn vị quản lý thuỷ nông. Căn cứ vào số lượng lương thực nhập kho, cơ quan lương thực huyện chuyển ngay tiền thanh toán cho đơn vị quản lý thuỷ nông theo giá chỉ đạo của Nhà nước.

Đối với trường hợp được phép thu bằng tiền nói ở điểm 2 trên đây, các đơn vị và hộ dùng nước thanh toán thuỷ lợi phí theo thể thức quy ước trong hợp đồng tưới tiêu nước đã ký kết.

5. Miễn, giảm. Trường hợp bị thiên tai (bão, lụt, hạn, úng) thu hoạch giảm sút hoặc mất mùa, các đơn vị và hộ dùng nước được xét giảm, miễn thuỷ lợi phí theo các điều kiện và tỉ lệ giảm, miễn của thuế nông nghiệp.

6. Điều khoản thi hành.

Việc thu thuỷ lợi phí bằng hiện vật quy định trong thông tư liên bộ này phải thi hành ngay từ vụ chiêm xuân năm 1980. Các sở, ty, phòng (ban) tài chính, thuỷ lợi, lương thực, Ngân hàng Nhà nước ở địa phương cần có kế hoạch phối hợp công tác thu thuỷ lợi phí chặt chẽ và giúp các đơn vị quản lí thuỷ nông thu thuỷ lợi phí đầy đủ, đúng chính sách, chế độ của Nhà nước quy định.

Yêu cầu Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quan tâm tổ chức chỉ đạo thực hiện những quy định trên và phản ảnh về hai bộ kịp thời những khó khăn trở ngại, nếu có.