SẮC LỆNH
CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
SỐ 130-SL NGÀY 2 THÁNG 8 NĂM 1950
CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu Sắc lệnh số 40-SL ngày 29 tháng 3 năm 1946 và các sắc lệnh sửa đổi tiếp theo về việc bảo đảm tự do cá nhân;
Chiểu Sắc lệnh số 21 ngày 14 tháng 2 năm 1946 và các sắc lệnh tiếp theo tổ chức toà án quân sự;
Chiểu Sắc lệnh số 254-SL ngày 19 tháng 11 năm 1948 tổ chức chính quyền nhân dân trong thời kỳ kháng chiến;
Theo đề nghị của các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp;
Theo Quyết nghị của Hội đồng Chính phủ sau khi Ban thường trực Quốc hội thoả thuận;
RA SẮC LỆNH:
Điều 1: Điều 9 sắc lệnh số 40-SL ngày 29 tháng 3 năm 1946 sửa đổi do sắc lệnh số 68-SL ngày 26 tháng 7 năm 1947 nay sửa lại như sau:
"Điều 9 mới: Khi nào cấp bách đặc biệt, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính được phép bắt người xét ra lời nói hay việc làm nguy hại cho cuộc trị an hay kháng chiến, song phải báo cáo ngay trong ngày tạm bắt giữ ấy cho Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu.
Trong hạn 30 ngày là cùng, hồ sơ phải đệ lên Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu, hoặc gửi cho Công tố uỷ viên toà án quân sự nếu xét ra việc thuộc thẩm quyền toà án này.
Trong hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ do Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh gửi đến Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu phải xét hồ sơ và ra lệnh hoặc tha, hoặc đưa đi an trí, hoặc truy tố trước toà án quân sự tuỳ theo trường hợp."
Điều 2: Các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tư pháp chiểu sắc lệnh thi hành.