• Hiệu lực: Chưa ban hành
  • Ngày ban hành: 04/12/1957

NGHỊ ĐỊNH

CỦA BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN SỐ 001/CA NGÀY 4 THÁNG 12 NĂM 1957 QUY ĐỊNH THỦ TỤC ĐĂNG KÝ ĐỐI VỚI NHỮNG NGƯỜI
LÀM NGHỀ KHẮC DẤU

 

BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG AN

 

Căn cứ Điều lệ số 488/TTg ngày 30-3 -1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc đăng ký các loại kinh doanh công thương nghiệp;

Căn cứ Quyết định số 609/TTg ngày 4-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc cho phép kinh doanh và đăng ký kinh doanh công thương nghiệp;

Căn cứ Thông tư số 3191 ngày 9-12-1955 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công các ngành đăng ký công thương nghiệp;

Sau khi thỏa thuận với Bộ Thương nghiệp;

NGHỊ ĐỊNH

 

Điều 1: Tất cả những người làm nghề khắc chữ, khắc bản in, khắc con dấu (dấu ướt, dấu chìm, dấu nổi ) trên các loại kim, gỗ, nhựa,v.v. Nói chung là làm nghề khắc dấu, có mở cửa hiệu hay bày hàng ngoài trời, hoặc chỉ khắc thuê mà không bày hàng hay không mở hiệu, đều phải làm thủ tục đăng ký tại các cơ quan công an quy định trong nghị định này.

 

Điều 2: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Uỷ ban hành chính các tỉnh, thành phố, và những khu không có tỉnh trực thuộc, công bố nghị định này, tất cả những người đã làm nghề khắc dấu từ trước đều phải nộp tại Ty, Sở, Khu Công an địa phương những giấy tờ sau đây:

Một đơn xin đăng ký kinh doanh

Một bản lý lịch

Một ảnh khổ 4 x6 phân, nửa người, mới chụp, nghiêng mặt 2/3.

Trong khi chờ đợi cơ quan đăng ký xét cấp giấy phép, những người làm nghề khắc dấu nói trên vẫn được tiếp tục kinh doanh cho đến khi có quyết định mới.

 

Điều 3: Những người làm nghề khắc dấu hoạt động sau ngày công bố nghị định này phải làm thủ tục nói ở điều 2 và chỉ được phép hoạt động sau khi được cấp giấy phép.

 

Điều 4: Mỗi khi đổi tên hiệu, thay đổi cổ phần, dời địa điểm kinh doanh đi nơi khác, thu hẹp hay mở rộng phạm vi kinh doanh, nhường cửa hiệu cho người khác hay đóng cửa hiệu, người làm nghề khắc dấu phải báo trước 10 ngày cho cơ quan công an trực tiếp quản lý mình biết. Trường hợp dời địa điểm kinh doanh đến một tỉnh hay thành phố khác thì khi đến phải báo việc tiếp tục kinh doanh cùng một lần với việc khai báo hộ khẩu cho cơ quan công an nơi mới đến biết.

 

Điều 5:

A- Người làm nghề khắc dấu chỉ được nhận khắc những con dấu thuộc cơ quan chính quyền, quân đội. Và đoàn thể các cấp khi nào người đến thuê đưa đủ giấy giới thiệu của cơ quan hay đoàn thể đó và giấy giới thiệu khắc dấu của cơ quan công an nơi người làm nghề khắc dấu đó đang kinh doanh, kèm theo chứng minh thư của người đến thuê khắc.

B- Người làm nghề khắc dấu khi nhận khắc các con dấu như "Mật" "Khẩn" "Hoả tốc" "Ký thay" dấu tên cá nhân, chữ ký của cá nhân, những tiêu đề đóng trên các giấy tờ, những bản in hay những con dấu của tư nhân (cá nhân hay tổ chức ) thì phải đòi hỏi người đến thuê khắc đưa ra một trong những loại giấy tờ sau đây để ghi vào sổ: Chứng minh thư, sổ đăng ký công thương, sổ hộ tịch.

 

Điều 6: Mỗi khắc dấu đều phải có sổ ghi họ tên, tên, tuổi, địa chỉ, quốc tịch, nghề nghiệp của người đến thuê khắc, sổ và ngày cấp giấy giới thiệu của cơ quan, đoàn thể và của công an hoặc số và ngày cấp chững minh thư, sổ đăng ký công thương, sổ hộ tịch, số lượng, loại khuôn khổ và nội dung vật phẩm, ngày nhận hàng, ngày giao hàng. Khi khắc xong mỗi con dấu, người làm nghề khắc dấu phải đóng mẫu dấu vào sổ để xuất trình nhà chức trách khi cần thiết.

Riêng đối với loại con dấu của cơ quan chính quyền, đoàn thể, quân đội nói ở khoản a điều 5 của nghị định này, trước khi giao hàng cho khách chủ hiệu phải mang dấu đó đến đóng mẫu tại đồn công an nơi mình đang kinh doanh hoặc cơ quan công an xã (nếu nơi đó không có đồn công an) đồng thời nộp lại giấy giới thiệu của cơ quan thuê khắc dấu và của công an nộp.

 

Điều 7: Người làm nghề khắc dấu nào không hoạt động liền trong vòng hai tháng mà cơ quan đăng ký xét ra không có lý do chính đáng thì giấy phép xem như không có giá trị nữa.

 

Điều 8: Người làm nghề khắc dấu nào làm trái những điều quy định trên đây sẽ tuỳ theo lỗi nặng hay nhẹ mà bị phê bình, hoặc cảnh cáo hoặc thu hồi giấy phép kinh doanh tạm thời hay vĩnh viễn hoặc bị truy tố trước toà án.

 

Điều 9: Những quy định trước đây trái với nghị định này đều bãi bỏ.

 

Điều 10: Các Uỷ ban hành chính khu, tỉnh, thành phố, các ông Chánh văn phòng, Giám đốc Vụ Trị an hành chính Bộ Công an chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.