NGHỊ ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 100/TTG, NGÀY 3 THÁNG 3 NĂM 1959
VỀ VIỆC THỐNG NHẤT CÁC ĐƠN VỊ BỘ ĐỘI QUỐC PHÒNG, CÔNG AN BIÊN PHÒNG, CẢNH SÁT VŨ TRANG THÀNH CÔNG AN
NHÂN DÂN VŨ TRANG
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ quốc phòng - Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và của ông Bộ trưởng Bộ Công an;
Căn cứ nghị quyết của Hội nghị Thường vụ Hội đồng Chính phủ ngày 25 tháng 2 năm 1959;
NGHỊ ĐỊNH
Điều 1: Nay thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị công an biên phòng, cảnh sát vũ trang thành một lực lượng vũ trang chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an.
Điều 2: Nhiệm vụ của Công an nhân dân vũ trang là trấn áp bọn phản cách mạng trong nước và bọn phản cách mạng ngoài nước xâm nhập phá hoại nước ta, và những phần tử phá hoại khác; luôn luôn sẵn sàng cùng quân đội nhân dân, dân quân du kích và nhân dân chiến đấu để bảo vệ an ninh nội địa, biên giới, giới tuyến, bờ biển, bảo vệ an ninh các thành phố, thị xã, các cơ quan, các cơ sở kinh tế và văn hoá quan trọng, v.v...
Điều 3: Toàn thể lực lượng công an nhân dân vũ trang đặt dưới sự chỉ huy của Ban chỉ huy Trung ương của lực lượng Công an nhân dân vũ trang.
Ban chỉ huy Trung ương của lực lượng công an nhân dân vũ trang do Bộ Công an lãnh đạo, có các cơ quan giúp việc như: tham mưu, chính trị, trinh sát, hậu cần.
Hệ thống tổ chức công an nhân dân vũ trang ở các địa phương do Bộ Công an quy định, sau khi được Thủ tướng Chính phủ duyệt y.
Khi có chiến tranh, về mặt tác chiến và phòng thủ, lực lượng Công an nhân dân vũ trang đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam.
Điều 4: Bộ Công an có nhiệm vụ nghiên cứu và trình Chính phủ duyệt các chế độ đối với lực lượng công an nhân dân vũ trang như chế độ phục vụ của sĩ quan, chế độ cấp bậc, phù hiệu, cấp hiệu, tiền lương, cung cấp, phụ cấp, khen thưởng, v.v...
Trong khi chưa có chế độ mới thì tạm thời tiếp tục thi hành các chế độ của quân đội nhân dân cho công an nhân dân vũ trang, trừ những điều xét không thích hợp.
Nói chung trong lúc tại ngũ và sau khi xuất ngũ, cán bộ và chiến sĩ công an nhân dân vũ trang được hưởng quyền lợi như các cán bộ và chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.
Điều 5: Những điều quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 6: Ông Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng tư lệnh, ông Bộ trưởng Bộ Công an và ông Chánh văn phòng Thủ tướng phủ chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.